Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử

Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử còn có tên gọi khác là chùa Long Động, chùa Lân, viện Kì Lân, thuộc địa phận thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Tên chùa là Long Động (龍洞寺) ít nhất có từ thời Lê. Một số văn bia hiện còn tại chùa như văn bia trên tháp Tịch Quang, tháp Bảo Quang, tháp Liên Phương… có niên đại thời Lê đều cho biết chùa có tên là Long Động. Có truyền thuyết nói rằng tên chùa Long Động có từ thời Trần, khi vua Trần Nhân Tông và đệ tử Bảo Sái trên đường vào Yên Tử tu hành, gặp lúc trời tối liền nghỉ lại tại đây. Ban đêm, vua mơ thấy mình cưỡi rồng vàng bay vào trong một hang động rất đẹp, có hồ nước lung linh đầy hoa sen nở, tỏa ngát hương thơm. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho Bảo Sái nghe và đặt tên chùa là Long Động. Dân gian vẫn thường gọi là chùa Lân. Theo Nguyễn Bá Lăng trong Kiến trúc Phật giáo Việt Nam thì “Long Động tự, tục gọi là chùa Lân vì bên cạnh có quả núi giống hình con lân”. Người dân địa phương thì giải thích tên chùa Lân theo cách khác, rằng ngày xưa, vào mùa mưa, vùng Nam Mẫu ngập trắng nước, suối chảy mạnh, muốn vào chùa phải dùng bè mảng, nhà chùa phải căng dây cho khách bám, lân dây đi vào. Do việc lân dây nên chùa lâu dần trở thành quen mỗi khi mùa nước ngập, được người dân gọi là chùa Lân.

Sau khi về Yên Tử xuất gia tu hành một thời gian, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã cho xây dựng nơi đây thành một nơi khang trang, chùa Lân trở thành viện Kì Lân (麒麟院), là nơi giảng đạo và độ tăng với quy mô lớn. Trúc Lâm Sơ Tổ Trần Nhân Tông, Đệ Nhị Tổ Pháp Loa và Đệ Tam Tổ Huyền Quang thường đến đây thuyết pháp, giảng kinh cho học chúng. Tam tổ thực lục còn chép buổi khai đường thuyết pháp của Trúc Lâm Điều Ngự ngày 9, tháng giêng, năm Bính Ngọ (1306) tại viện Kì Lân. Còn tên thiền viện Trúc Lâm Yên Tử là do Hòa thượng Thích Thanh Từ khởi xướng, với mong muốn khôi phục và phát triển những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm đời Trần.

Chùa xưa được xây dựng trên triền núi phong quang. Phía trước có đồi núi nhấp nhô tạo thành tiền án, lại có dòng suối chảy đêm ngày theo chiều từ phải sang trái. Hai bên có dãy núi cao tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ tạo thế tay ngai (long chầu hổ phục). Phía sau lưng có núi cao sừng sững làm hậu chẩm. Ngõ chùa Lân xưa to và đẹp, được xem là một trong ba cái nhất không thể so bì trong các ngôi chùa cổ thời Trần. Dân gian có câu: “Ngõ chùa Lân (to), sân chùa Muống (rộng), ruộng chùa Quỳnh (nhiều)”, điều này cũng đủ thấy chùa Lân là một ngôi chùa có tiếng.

Trong kháng chiến chống Pháp, chùa gần như bị thiêu hủy hoàn toàn, chỉ còn lại 23 ngôi tháp, mộ được xây dựng vào thời Lê và thời Nguyễn. Trong đó, nổi bật nhất là tháp Tịch Quang được xây dựng vào năm Bính Ngọ (1726), năm thứ 7 niên hiệu Bảo Thái, đời vua Lê Dụ Tông, thờ thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647 – 1726). Chân Nguyên Tuệ Đăng là một bậc danh tăng có công lớn trong việc xiển dương và phục hưng những giá trị của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử, cũng là người kế đăng và truyền thừa dòng Lâm Tế tại Bắc Việt.

Cuối thế kỉ XX, Ni sư Thích Đàm Châu về trụ trì tại chùa Lân, ngôi chùa khi đó chỉ là một dãy nhà cấp bốn, quy mô nhỏ bé, lợp ngói tây, do người dân trong vùng quyên góp xây dựng vào những năm 70 của thế kỉ XX.

Đầu thế kỉ XXI, công trình chùa Lân được trùng tu và xây dựng với quy mô to lớn, đồng thời được đặt thêm một tên mới là thiền viện Trúc Lâm Yên Tử. Năm 2003, Hòa thượng Thích Thông Phương được bổ nhiệm làm trụ trì. Thiền viện được xây dựng với ba chức năng chủ yếu:

1. Là nơi nghiên cứu, bảo tồn, tàng trữ thư tịch, ấn phẩm văn hóa về Yên Tử và Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử;

2. Là nơi hướng dẫn tu thiền cho tu sĩ, Phật tử, và những ai muốn hành thiền theo hệ thống các thiền viện Trúc Lâm;

3. Là nơi tham quan, chiêm bái, hành hương, lễ Phật của du khách thập phương.

Các công trình xây dựng nằm trong vùng I với diện tích 125.198m2, gồm hai khu Nội viện và Ngoại viện với nhiều hạng mục công trình. Khu Nội viện gồm có thất Hòa thượng, Thiền đường, Thất tăng, Nhà tăng, Trai đường, Nhà bếp. Khu Ngoại viện gồm Tam quan, Trụ biểu, Chính điện, Tổ đường, Lầu chuông, Lầu trống, Chính pháp đường, Thư viện, Nhà trưng bày, Nhà khách tăng, Nhà khách ni, Tháp Phật, Tháp tăng, Hồ Tĩnh Tâm… Vùng II có diện tích 237.077m2, gồm toàn bộ cây rừng được bảo vệ nguyên trạng, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên cho núi rừng Yên Tử. Trong chùa, tượng thờ và pháp khí được bài trí đơn giản; toàn bộ hoành phi, câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ.

 

 

bg-load-more

Khám phá Non thiêng Yên Tử

2 ngày 1 đêm

Yên Tử từ lâu được nhiều thế hệ thiền sư, đạo sĩ lựa chọn làm nơi tu tập. Đặc biệt hơn, vào thế kỷ 13, Phật hoàng Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng về Yên Tử tu hành, sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm. Và từ đó, Non...